Thời trung đế quốc Assyria-sự nổi lên của Assyria Assyria

Sự bành trướng và đế quốc Assyria 1390-1076TCN

Dưới Triều đại của Eriba-Adad I (1390 TCN- 1366 TCN), ảnh hưởng của Mitanni đối với Assyria suy yếu dần. Eriba-Adad I đã dính líu vào một trận chiến tranh giành ngôi báu giữa Tushratta và em trai của ông ta Artatama II và sau này là con trai ông ta Shuttarna II, người tự xưng là vua của người Hurri trong khi lại tìm kiếm sự ủng hộ từ người Assyria. Một phe thân-Hurri/Assyria đã có mặt trong triều đình hoàng gia Mitanni. Nhờ vậy, Eriba-Adad I đã nới lỏng được ảnh hưởng của Mitanni đối với Assyria, và ngược lại còn tạo ra ảnh hưởng của Assyria đối với các vấn đề của Mitanni.

Trong suốt Triều đại của Ashur-uballit I (1365 TCN - 1330 TCN). Người Assyria đã tạo ra sức ép từ phía đông và người Hittite từ phía tây bắc, cho phép Ashur-uballit I giành được thế thượng phong trước người Mitanni, và một lần nữa biến Assyria thành một cường quốc. Vị vua người Kassite của Babylon đã kết hôn với Muballiṭat-Šērūa, con gái của Ashur-uballit I, nhưng cuộc hôn nhân này đã dẫn đến kết quả tai hại, vì phe Kassite tại triều đình đã sát hại vua Babylon và đưa một kẻ tiếm vị lên trên ngai vàng. Assur-uballit nhanh chóng xâm chiếm Babylon để trả thù cho con rể của mình, tiến vào Babylon, và lật đổ vua của họ và đưa Kurigalzu II thuộc dòng dõi hoàng gia lên thay. Ashur-uballit sau đó tấn công và đánh bại vua Mitanni Mattiwaza bất chấp nỗ lực của vua Hittite Suppiluliumas, vốn lo sợ sự hùng mạnh ngày càng tăng của Assyria, cố gắng để bảo vệ ngai vàng của ông ta với sự hỗ trợ quân sự. Các vùng đất của người Mitanni và Hurri đã bị chiếm đoạt bởi Assyria, làm cho nó trở thành một đế chế rộng lớn và hùng mạnh.

Enlil-nirari (1329 - 1308 trước Công nguyên) đã lên kế vị Ashur-uballit I. Ông tự mô tả mình là "Đại Đế" (Sharru rabû) trong thư gửi cho các vị vua Hittite. Ông đã ngay lập tức bị tấn công bởi Kurigalzu II của Babylon, người đã được đưa lên ngôi bởi cha ông, nhưng ông đã thành công trong việc đánh bại ông ta, đẩy lùi các nỗ lực xâm chiếm Assyria của Babylon, sau đó phản công và chiếm đoạt lãnh thổ Babylon trong quá trình này, do đó tiếp tục mở rộng lãnh thổ Assyria. Vị vua kế vị, Enlil nirari, Arik-den-ILI (khoảng 1307-1296 trước Công nguyên)đã tiến hành những chiến dịch thành công ở dãy núi Zagros phía đông, chinh phục người LullubiGuti. Ở vùng Cận Đông, ông đã đánh bại các bộ lạc Semite còn được gọi là dân Ahlamu. Ông đã được kế vị bởi Adad-nirari I (1295 - 1275 trước Công nguyên), người đã biến Kalhu(Kinh Thánh Calah / Nimrud) thành kinh đô của mình, và tiếp tục mở rộng về phía tây bắc, chinh phục những vùng đất của người Hittite như Carchemish và xa hơn nữa. Adad-nirari cũng đã tiến xa hơn nữa về phía nam, thôn tính lãnh thổ Babylon và buộc các vị vua Kassite của Babylon phải chấp nhận một thỏa thuận biên giới mới mà có lợi cho Assyria.

Năm 1274 TCN, Shalmaneser I đã lên ngôi. Ông đã chứng tỏ bản thân mình là một vị vua chiến binh vĩ đại. Trong suốt Triều đại của ông, ông đã chinh phục vương quốc Urartu hùng mạnh ở dãy núi Caucasus và những người Guti hung tợn của dãy núi Zagros ở Iran hiện nay. Ông sau đó tấn công người Mitanni-Hurri, đánh bại cả vua Shattuara và đồng minh Hittite và người Aramea của ông ta, cuối cùng ông đã hoàn tất việc hủy diệt vương quốc Hurri trong cuộc chiến này. Người Hittite đã cố gắng nhưng không thành công trong việc bảo vệ Mitanni. Liên minh với Babylon, họ đã tiến hành một cuộc chiến tranh kinh tế chống lại Assyria trong nhiều năm. Assyria là một đế chế rộng lớn và hùng mạnh, và là một mối đe dọa lớn đến lợi ích của Ai Cập và Hittite trong khu vực, và có lẽ đó là lý do mà hai cường quốc này đã lập lại hòa bình với nhau[6] Giống như cha mình, Shalmaneser là một nhà xây dựng vĩ đại và ông tiếp tục mở rộng thành phố Kalhu (Kinh Thánh Calah/ Nimrud) tại chỗ giao nhau của sông Tigris và sông Zab.

Con trai và người kế vị của Shalmaneser, Tukulti-Ninurta I (1244 TCN -1208 trước Công nguyên), đã giành một thắng lợi quan trọng trước người Hittite và vua Tudhaliya IV của họ trong trận Nihriya và bắt được hàng ngàn tù binh. Ông sau đó chinh phục Babylon, giam cầm Kashtiliash IV, và tự mình làm vua cai trị vùng đất này trong 7 năm. Ông còn lấy tước hiệu xa xưa "Vua của Sumer và Akkad" mà ban đầu được sử dụng bởi Sargon của Akkad. Tukulti-Ninurta I đã trở thành người Lưỡng Hà bản địa đầu tiên cai trị nhà nước Babylonia, mà những người sáng lập ra nó vốn là dân Amorite, và tiếp đó được kế tục bởi dân Kassite. Sau đó, ông tuyên bố mình là "vua của Karduniash, vua của Sumer và Akkad, vua của Sippar và Babylon, vua của Tilmun và Meluhha "[7]. Tiếp đà chiến thắng, ông đã đánh bại người Elam, những người mà bản thân họ cũng thèm muốn Babylon. Ông cũng đã viết một bài thơ sử thi ghi lại những cuộc chiến tranh của ông chống lại Babylon và Elam. Sau khi một cuộc nổi dậy ở Babylon, ông đã tấn công và cướp bóc các đền thờ ở Babylon, được coi như là một hành động phạm thánh. Khi quan hệ với vị tư tế ở Ashur bắt đầu xấu đi, Tukulti-Ninurta đã xây dựng một kinh đô mới; Kar-Tukulti-Ninurta[8]

Tuy nhiên, những người con trai của Tukulti-Ninurta đã nổi loạn và bao vây ông trong chính kinh đô của ông. Ông đã bị ám sát và sau đó được kế vị bởi Ashur-nadin-apli. Một giai đoạn mất ổn định khác của Assyria đến sau đó, nó đã bị chia rẽ vào giai đoạn này bởi xung đột nội bộ và nhà vua mới đã không thành công trong việc chiếm lại Babylon, mà vào lúc này, các vị vua Kassite của nó đã lợi dụng biến động ở Assyria để giải phóng họ khỏi sự cai trị của Assyria. Tuy nhiên, Assyria chính nó cũng không bị đe dọa bởi các cường quốc bên ngoài trong các Triều đại của Ashur-nirari III, Enlil-kudurri usurNinurta apal-Ekur (1192-1180 TCN), mặc dù Ninurta apal-Ekur cướp ngôi của Enlil-kudurri-usur. Ashur-Dan I (1179-1133 TCN) đã lập lại sự ổn định cho Assyria trong suốt Triều đại dài khác thường của mình. Ông duy trì mối quan hệ thân thiện với Babylonia và các nước láng giềng khác của Assyria, và dường như đã dẹp yên bất ổn nội bộ. Tuy nhiên, một giai đoạn biến động nội bộ ngắn lại xảy ra sau khi Ashur-Dan qua đơi. Người con trai và là người kế vị của ông, Ninurta-Tukulti-Ashur(1133 TCN) đã bị lật đổ trong năm đầu tiên ông ta cai trị bởi người em trai của mình,Mutakkil-Nusku, và buộc phải chạy trốn sang Babylonia.

Nhưng chính bản thân Mutakkil-Nusku cũng qua đời trong cùng năm (1133 trước Công nguyên)và để lại ngai vàng cho người em thứ ba Ashur-resh-ishi I (1133 -1116 TCN). Điều này đã mở ra một giai đoạn bành trướng và đế quốc mới của Assyria. Khi đế quốc Hittite sụp đổ từ sự tấn công dữ dội của người Phrygia (được gọi là Mushki trong biên niên sử của người Assyria), Babylon và Assyria bắt đầu tranh giành những vùng đất của người Aramea (hiện nay là Syria), trước đây nằm dưới sự kiểm soát của Hittite. Khi quân đội của họ chạm trán trong khu vực này, vua Assyria Ashur-resh-ishi I đã giao chiến và đánh bại Nebuchadnezzar I của Babylon một vài lần. Assyria sau đó xâm chiếm và sáp nhập vùng đất mà người Hittite kiểm soát ở Tiểu Á và Aram (Syria), đánh dấu một sự bộc phát trong công cuộc bành trướng của đế quốc.

Tiglath-Pileser I (1115 - 1077 trước Công nguyên) là con trai của Ashur-resh-ishi, ông lên ngôi vua sau cái chết của cha mình, và trở thành một trong những nhà chinh phục Assyria vĩ đại nhất trong suốt Triều đại 38 năm của mình.[9]

Chiến dịch đầu tiên của ông xảy ra vào năm 1112 trước công nguyên là cuộc chiến chống lại người Phrygia, những người đã cố gắng để chiếm một số tỉnh của Assyria ở thượng nguồn sông Euphrates, sau khi đánh đuổi người Phrygia, tiếp đó ông đã tàn phá các vương quốc Commagene của người Luwian, CiliciaCappadocia, và đánh đuổi người Hittite khỏi tỉnh Subartu của người Assyria, phía đông bắc của Malatia.

Trong một chiến dịch tiếp theo, quân đội Assyria xâm lược Urartu, tiến tới vùng núi phía nam của hồ Van và sau đó quay về phía tây để tiếp nhận sự quy phục của Malatia. Trong năm thứ năm của Triều đại mình, Tiglath-Pileser một lần nữa tấn công Commagene, Cilicia và Cappadocia.

Người Aramaea ở phía bắc Syria là mục tiêu tiếp theo của vua Assyria, người đã tiến xa tới tận đầu nguồn của sông Tigris[9]. Việc kiểm soát các con đường đến Địa Trung Hải được bảo đảm bằng việc chiếm hữu thành phố Pethor của người Hittite tại nơi giao nhau giữa sông Euphrates và Sajur; từ đó ông tiếp tục chinh phục các thành phố của người Canaan / Phoenician như (Byblos), Sidon, và cuối cùng là Arvad nơi ông lên một con thuyền và căng buồm tiến ra Địa Trung Hải. Trên đó ông đã giết một con nahiru hoặc "ngựa biển "(mà A. Leo Oppenheim dịch là một con kỳ lân biển 1 sừng) ở biển[9] Ông có sự đam mê lớn lao đối với săn bắn và cũng là một nhà xây dựng vĩ đại. Quan điểm chung cho rằng sự khôi phục lại các ngôi đền thờ của các vị thần AshurHadad tại kinh đô Assur (Ashur) của người Assyria là một trong những sáng kiến ​​của ông.[9] Ông cũng đã xâm chiếm và đánh bại Babylon hai lần, sử dụng các danh xưng cổ "Vua của Sumer và Akkad ", bắt người Babylon nộp cống phẩm.

Assyria trong giai đoạn kỉ nguyên bóng tối, 1075-912 TCN

Sau khi Tiglath-Pileser I qua đời vào năm 1076 trước Công nguyên, Assyria đã suy yếu tương đối trong 150 năm tiếp theo. Khoảng thời gian từ năm 1200 TCN đến năm 900 TCN là kỉ nguyên bóng tối cho toàn bộ Cận Đông, Bắc Phi, Kavkaz, Địa Trung Hải và vùng Balkan, với những biến động lớn và các đợt di cư lớn của các tộc người.

Những dân tộc nói tiếng Semite như người Aramea, Chaldeangười Sutea di chuyển vào khu vực phía tây và phía nam của Assyria, bao gồm tràn vào phần lớn vùng Babylonia, các dân Ấn-Âu/Iran như Medes và Ba Tư di chuyển vào vùng đất phía đông của Assyria, thay thế người Guti bản địa và gây sức ép lên ElamMannea (cả hai nền văn minh cổ này đều không phải nền nền văn minh Ấn-Âu của Iran) và ở phía bắc tộc người Ấn-Âu người Phrygia tràn vào vùng đất của người Hittite, người Urartu (Armenia) trỗi dậy ở vùng Caucasus, và người Cimmeriangười Scythia xung quanh Biển Đen. Ai Cập bị chia rẽ và trong tình trạng xáo trộn, và người Semite Israel đang giao chiến với những cư dân gốc Semite khác là người Canaanngười Peleset (người Philistine) để giành sự kiểm soát miền nam Canaan.

Kị binh Assyria truy kích những người Arab bại trận.

Những vị vua như Ashur-bel-kala, Eriba-Adad II, Ashur-Rabi II, Ashurnasirpal I, Tiglath-Pileser IIAshur-Dan II đã thành công trong việc bảo vệ biên giới của Assyria và duy trì sự ổn định trong thời kì hỗn loạn này. Các vị vua Assyria trong thời kỳ này dường như đã chấp nhận một chính sách duy trì và bảo vệ một quốc gia nhỏ gọn, an toàn, và xen kẽ với đó là các cuộc tấn công lẻ tẻ mang tính trừng phạt và những cuộc xâm lược các vùng lãnh thổ lân cận khi cần thiết; Ví dụ, trong Triều đại của Ashur-Rabi II (1013-972 TCN) các bộ lạc người Aramae đã chiếm các thành phố PitruMutkinu (vốn đã bị chiếm và biến thành thuộc địa bởi Tiglath Pileser I) Điều này dẫn đến việc vua Assyria tấn công người Aramea và xây dựng một tấm bia tưởng niệm ở khu vực núi Atalur.[10] Tương tự như vậy, Ashur-Dan II(935-912 trước Công nguyên) được ghi lại là đã thực hiện các cuộc tấn công trừng phạt ra bên ngoài biên giới của Assyria và đã quét sạch người Aramea và các tộc người khác khỏi những khu vực xung quanh Assyria. Ashur-dan II đã tập trung vào việc xây dựng lại Assyria trong phạm vi biên giới tự nhiên của nó, từ Tur Abdin tới những chân đồi ở phía bên kia Arbela.

Lối sống xã hội thời Trung Assyria

Assyria đã gặp khó khăn với việc giữ cho các tuyến đường thương mại luôn được thông suốt. Không giống như hoàn cảnh trong giai đoạn cổ Assyria, con đường thương mại kim loại với cư dân Anatolia nằm dưới sự kiểm soát hiệu quả bởi người Hittite và người Hurria. Những dân tộc này vào thời điểm đó kiểm soát các cảng Địa Trung Hải, trong khi người Kassite kiểm soát tuyến đường sông phía Nam đến vịnh Ba Tư.

Vương quốc Trung Assyrian đã được thiết lập tốt, và nằm dưới sự kiểm soát vững chắc của các vị vua, những người cũng đảm nhiệm vai trò như là quan tư tế tối cao của Ashur, vị thần của đất nước. Ông ta chắc chắn phải thực hiện một số bổn phận trong việc thờ cúng, và phải cung cấp các nguồn lực cho những ngôi đền thờ.

Những thành phố chính của người Assyria vào thời Trung kỳ là Ashur, Kalhu (Nimrud) và Nineveh, tất cả đều nằm trong Thung lũng sông Tigris. Vào cuối thời kỳ đồ đồng, Nineveh là nhỏ hơn nhiều so với Babylon, nhưng nó vẫn là một trong những thành phố quan trọng nhất của thế giới (dân số khoảng 33.000). Vào cuối thời kỳ Tân-Assyria, dân số của nó đã đạt đến 120000 người, và có thể là thành phố lớn nhất thế giới tại thời điểm đó.[11]. Tất cả các công dân nam giới tự do đều phải có nghĩa vụ phục vụ trong quân đội một thời gian. Một bộ luật đã được ban hành vào thế kỷ 14-13 TCN, trong số những thứ khác, rõ ràng cho thấy rằng vị trí xã hội của người phụ nữ ở Assyria là thấp hơn so với các xã hội lân cận. Đàn ông được phép ly dị người vợ của họ mà không phải trả một khoản đền bù cho sau này. Nếu một người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người đó có thể bị đánh đập hoặc bị kết tội chết. Những người phụ nữ trong hậu cung của nhà vua, và người thị tì cho họ cũng phải chịu những hình phạt khắc nghiệt như đánh đập, cắt xẻo, và cái chết. Nói chung, Assyria đã có pháp luật khắc nghiệt hơn nhiều so với hầu hết các vùng đất khác.

Thời kì Trung Assyria được đánh dấu bởi các cuộc chiến tranh kéo dài trong thời gian này đã giúp xây dựng Assyria trở thành một xã hội chiến binh. Nhà vua phụ thuộc cả vào tầng lớp cư dân thành thị và các thầy tế ở kinh đô của mình, và giới quý tộc ruộng đất, những người cung cấp những con ngựa cần thiết cho quân đội Assyria.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Assyria http://www.abovyan.com/index.php?option=com_conten... http://www.allempires.com/article/index.php?q=ae_c... http://www.ancient.eu.com/assyria/ http://books.google.com/?id=Hodh6fgx-DMC&printsec=... http://video.google.com/videoplay?docid=-406614008... http://lexicorient.com/e.o/assyria.htm http://www.third-millennium-library.com/readinghal... http://www.third-millennium-library.com/readinghal... http://books.google.de/books?id=oknsEhcALLEC&print... http://fax.libs.uga.edu/DS71xJ39C/